Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2009

Nhạt toẹt

Chị dâu chat với em chồng.


Chị dâu : Này chú! Chú làm chị tưởng bở đấy nhá. Cái hình avatar chị cứ tưởng là bồ chú, hóa ra là bồ cũ thằng Cường đô la.


Em chồng : Tăng Thanh Hà đấy. Chị nhìn kỹ đi.


Chị dâu : Biết rồi.


Em chồng : Chị nhìn kỹ chưa?


Chị dâu :


Em chồng : Ảnh hot của Tăng Thanh Hà đấy! Bị lộ "hàng"


( Lúc này chị dâu mới dùng mắt diều hâu và zoom cận cảnh ngắm nghía cái hình avatar. Hóa ra là khi chụp hình em Tăng "quên" cài nút áo ở khu vực núi đôi )


Chị dâu : Ui giời, tưởng gì. "Hàng" đó chị cũng có nên chị thấy nhạt toẹt


Hé hé. Nhạt hay mặn, hot hay cool còn tùy thuộc vào mắt nhìn mỗi người.


Chồng đọc entry này thế nào cũng tị nạnh. Chị dâu nói chuyện với em chồng còn nhiều hơn cả anh giai với em. Mỗi lần chồng định nói chuyện lâu lâu với thằng em thì toàn bị nó goodbye. Hihihi...

Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2009

Phan Cẩm Thượng - họa sĩ ở chùa


Họa sĩ Pham Cẩm Thượng


Thứ Tư, 09/05/2007 - 2:29 PM















Gần chục năm nay, hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng thường xuyên đi về chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), nghỉ ngơi, làm việc và hoà mình vào đời sống làng quê - nơi tưởng chừng tĩnh lặng nhưng lại ẩn chứa nhiều mâu thuẫn và vận động phức tạp.



Đường về Bút Tháp xanh mươn mướt, con đê dài vượt lên không trung trên nền cỏ đồng và những bãi dâu non. Gió cuối xuân bắt đầu phóng khoáng. Con đường đẹp đẽ từ chân cầu Đuống, nối những bãi bờ Gia Lâm với vùng Thuận Thành, mang không khí huyền thoại và vẻ bình yên như nhiều trăm năm qua chưa từng thay đổi.


Em tôi chỉ rặng tre nhỏ dàn hàng ngang bên mép nước: Lâu lâu, ông Thượng với mấy anh học trò, họa sỹ Việt, họa sỹ Tuấn hay nhà báo Lâm lại xuống bến bơi lặn…


Ngoài căn phòng nhỏ sau chùa, treo đầy tranh và xếp đầy sách, họa sỹ Phan Cẩm Thượng dán những lá quỳ bạc vào mấy bức tranh khổ nhỏ vừa phủ sơn.


Chùa Bút Tháp - Ninh Phúc tự được xây dựng tại xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh trong thế kỷ XVII. Kỹ thuật chạm khắc tượng và các hoa văn trên gỗ, đá ở đây được xếp vào hàng độc đáo, phong phú bậc nhất trong các công trình Phật giáo Việt Nam .


Sự liên kết của các gian thờ, những pho tượng, những bức phù điêu, lan can, cầu đá cùng những mảnh sân và hành lang dài có xu hướng vừa khép kín, vừa cởi mở. Không gian thiêng liêng, tịch mịch, u trầm, trong sâu xa phảng phất nỗi niềm thế cuộc đã níu chân Phan Cẩm Thượng.


Gần chục năm nay, họa sỹ thường xuyên đi về ngôi chùa, nghỉ ngơi, làm việc và hoà mình vào đời sống làng quê - nơi tưởng chừng tĩnh lặng nhưng lại ẩn chứa nhiều mâu thuẫn và vận động phức tạp.


Chúng tôi ra ngồi dưới những lùm nhãn dẫn vào tam quan nhà chùa. Những tán lá tròn và dày, trưa nắng hăng hắc mùi bọ xít lẫn hương cỏ ngan ngát. Những con bọ xít bé xíu màu đen tìm đến khắp nơi, có con đã mắc vào chòm râu dài của họa sỹ. Sát ngay chỗ chúng tôi ngồi, một con bọ ngựa cái sau cơn cuồng say, đang xé xác bọ ngựa đực. Nó tha phần còn lại lên cành cao cất giấu…


Ngồi ở đây, ngắm con đê sau chùa cao đến ngang trời, thầy trò họa sỹ tiếp tục nói chuyện về văn hoá Việt. Về sự mất mát của hàng ngàn, hàng vạn di sản và nghệ thuật ở nông thôn đang trên đường phát triển, những biến đổi không thể kéo lại trong tâm lý và lối sống những người ở quê trong quá trình đô thị hoá.


Nơi thiền môn lặng lẽ, công việc vẫn được bàn tới, một bức khắc gỗ vừa hoàn thành, dự kiến cho chuyến giảng bài ở một trường nghệ thuật nào đó mà nhiều năm qua, người ta vẫn mời: Lạng Sơn, Thanh Hoá, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế…


Về chùa hay ở Hà Nội cũng vậy, họa sỹ không ngừng làm việc - bằng tay khi đưa nét mực đen vẽ trên nền lụa, nền giấy dó; bằng mắt khi chậm rãi mở những cuốn sách tiếng Anh, sách Hán Nôm, đến các triển lãm tranh, tượng, sắp đặt, đọc nghệ thuật và chứng kiến đời sống; và bằng trí não khi tư duy để cho ra đời một tác phẩm mới, một bài phê bình hay suy ngẫm về thời cuộc.


Không riêng rẽ đến thế, trong con người rất phong phú và sâu xa này, sự làm việc của các giác quan luôn được hoà lẫn, trong một trạng thái thong thả, tưởng chừng thư giãn nhưng luôn đều đặn và liên tục. Có thể đó là một biểu hiện của mối tương quan tĩnh và động.


Phan Cẩm Thượng dường như không thay đổi khi trở về không gian chùa quê - bên ngoài thoáng đãng, bên trong u uẩn, sâu kín - với khi ở giữa phố xá đông đúc. Căn hộ thuê trên tầng 4 khu Cảm Hội - Lò Đúc, vốn đã nhỏ, lại càng chật vì những bức vóc đen bóng, những tấm gỗ đang đục dở, sách báo và máy tính.


Anh Thạo - thợ chạm khắc gỗ tài hoa sống gần chùa Bút Tháp, chậm rãi vạch chiếc đục sắc theo những nét vẽ tròn của thầy Thượng, đầu không ngửng lên. Họa sỹ vừa đi công việc về, mặc quần nâu ngồi gọt khoai, nấu cơm cho hai thầy trò.


Phan Cẩm Thượng là một dòng sông, đều đặn trôi, trong những sông lớn mà họa sỹ là người chứng nghiệm: Đừng mất quá nhiều thời gian kiếm ăn, vừa vừa thôi! Hãy nhìn những dòng sông! Chứng kiến thì sẽ thấy được nhiều hơn. Có thể từ đầu anh đã nhận ra một điều gì đó, nhưng anh vẫn cần thời gian để chứng nghiệm.


Làm nghệ thuật, anh phải chứng kiến những đổi thay của xã hội dù không can thiệp được. Anh chỉ phản ánh được bằng nghệ thuật! Nếu đưa ra một thứ nghệ thuật nghiêng về sự nhân ái là tốt rồi!


Quan điểm chứng nghiệm được tạo dựng lâu dài, là kết quả của những đời sống thấm đẫm tuổi thơ. Một cách tự nhiên, chúng dẫn đến mong muốn được nhìn ngắm, suy luận và phát hiện trước muôn mặt xã hội.


Tuổi thơ Phan Cẩm Thượng long đong và đầy những suy nghĩ về cuộc sống. Năm 1965 sơ tán Phú Thọ rồi sang quê mẹ Phù Chẩn - Bắc Ninh một thời gian ngắn, 1968 về học ở Quốc Oai - Hà Tây, có những ngày học ở Cự Đà, 1969 học Nhân Chính - Hà Nội, 1970 lên Phúc Yên, 1972 lại về Quốc Oai, 1974, 1975 về Hà Nội, Đông Anh, rồi từ Đông Anh đi bộ đội.


Cuộc sống trôi nổi, đâu cũng là nhà, đâu cũng có những người đùm bọc, có những cuộc phiêu lưu với đám bạn bè và những nỗi đau buồn. Càng lớn càng buồn vì biết mình nghèo, và xấu hổ vì những lúc hết tiền đóng học, phải nghỉ. Rồi có người giúp, lại đi học, rồi lại nghỉ…


Lẫn với hàng trăm sự việc như thế là những ngày loanh quanh trong các đình chùa Hà Nội và các làng quê, tự học chữ Hán và thư pháp theo sách của một ông già trên phố cổ tặng cho. Lớp 3, lớp 4 đã về những ngõ gạch làng Cự Đà, vào các đền miếu cũ, rồi chơi trong các làng cổ Cấn Thượng - Trung - hạ vùng Quốc Oai, nơi vẫn còn các bà cụ cạo trọc đầu mặc váy vuông, lôi cả kiếm gỗ trong đình ra đấu nhau. Phan Cẩm Thượng lên chơi nhiều ngôi chùa trên núi, có những nơi nay đã thành vôi.


Lớp 8, thấy mình mai sau không hợp với đua tranh, danh vị, buôn bán, không làm được nghiên cứu, có lẽ chỉ hợp với những thứ mà người ta bỏ đi - tức là văn hoá cổ, là mấy cái bị coi là cổ hủ một thời.


Đi bộ đội, đến năm 1979, giải ngũ, nộp hồ sơ thi Hán Nôm Trường Tổng hợp bị trả lại. May gần nhà có ông làm tuyển sinh Trường Mỹ thuật Yết Kiêu, ông bảo đưa hồ sơ, thi thử bên này. Đỗ lý luận phê bình mỹ thuật, năm 1983 tốt nghiệp, ở lại trường giảng dạy, viết những bài đầu tiên về đình chùa cổ, nhớ về những nơi tuổi ấu thơ từng sống, nay đã biến đổi hoặc không còn. Đi điền dã triền miên, đều đặn đọc sách, đọc truyền thống và hiện đại để viết và dạy học.


Năm 1992, Phan Cẩm Thượng bắt đầu vẽ, lối vẽ cổ xưa, những bức tranh u uẩn, đầy những cảm thức về đời sống làng quê với những mặt người tưởng chừng mê ngủ, xung quanh con người có sự hiện diện của thánh thần, trong mỗi con người, có sự hiện diện khác nhau của những tính cách…


Trên hành trình nặng nhọc đi vào đất đai của mỹ thuật, điêu khắc cổ. Mà kéo về sau và mở sang hai bên là văn hoá truyền thống. Đẩy về trước là nền mỹ thuật hiện đại, Phan Cẩm Thượng luôn chọn sự dấn thân một cách điềm đạm để phù hợp với từng hoàn cảnh. Một phần nhờ thế, công việc luôn trôi chảy, liên tục.


Công việc, với Phan Cẩm Thượng, là vận động hình thành tác phẩm cùng tất cả những điều tiếp nhận, ngẫm nghĩ, là những dòng sông cõi người trôi qua trước mặt với nhiều khúc quanh, ngã rẽ, là phố đông và chùa vắng - những nơi mà lẽ xuất xử trong mình biến ảo nhịp nhàng.


Tôi nhớ lại từng triền đê chạy dưới những vừng mây lớn dẫn về ngôi chùa, dẫn tới Phan Cẩm Thượng, nhận ra vào những lúc nào đó trong ngày, với một số người, nó trở thành con đường đi tìm Đạo. Trên đó, khi từ nắng rực rỡ đi vào bóng rợp âm âm, mát lành của mây trời phủ xuống, tôi tin vào sự có thật của những huyền thoại


Nguyễn Quang Hưng

Về Bút Tháp cùng Phan Cẩm Thượng

16/02/2007


TTXuân - Tôi quen anh Phan Cẩm Thượng được vài tháng thì anh rủ tôi đi thăm chùa Bút Tháp, hỏi tôi có thời gian ở được vài ba hôm không? Tôi ngạc nhiên: Ta ở lại đâu? Anh cười: Thì ở chùa, anh có ở chùa được không?... Về sau tôi mới để ý: khi nói về tôi thì anh gọi là “đi”, còn khi tự nói về mình thì anh bảo là “về”.


1. Anh Thượng có nhà bên Hà Nội, nhưng nói theo ngôn ngữ nhà Phật, đấy chỉ là nơi gửi, Bút Tháp mới là chỗ anh về. Tại đây anh có một phòng để ở và vẽ, một phòng nhỏ sát cạnh làm nơi chứa tranh, kho vàng thật sự của anh. Thoạt đầu tôi nghĩ anh Thượng về ở Bút Tháp là để vẽ. Hóa ra không phải. Quả Bút Tháp là một trong những ngôi chùa đẹp nhất nước, lại nằm chính giữa Kinh Bắc, một vùng văn hóa cổ và sâu nhất, quá lý tưởng cho một họa sĩ tìm đến.


Nhưng anh Thượng tìm về Bút Tháp, gần như định cư hẳn ở đấy chắc chủ yếu vì một điều khác: anh tìm đến với một niềm tâm sự u uẩn, xưa nay thời nào và ở đâu cũng có, ai ngờ dấu vết lại đậm nhất ở chốn cửa Phật này, đau đáu số kiếp con người. Thật vậy, đây đâu chỉ là một ngôi chùa, còn là nơi nhốt chứa nỗi đau thắt quặn của mấy con người, mấy cá nhân mà cũng là đại diện cả một giai tầng, thậm chí một xã hội, một thời, mà cũng có thể muôn thời.








Chùa Bút Tháp
Ngôi chùa này, anh Thượng bảo, không ai biết đích xác được lập từ thời nào. Hai tấm bia chính ở chùa, tấm sớm nhất “Sắc kiến Ninh Phúc Thiền tự bi ký” thế kỷ 17, đều ghi là “trùng tu”, lời bia rất văn hoa: “Ninh Phúc là ngôi chùa cổ, biệt danh Thiếu Lâm. Trên nền tảng của thánh hiền, nằm trong vùng Siêu Loại. Liền với dãy núi Tam Đảo. Vượt sông dài nối với những áng mây trôi Yên Tử. Đất Tiên Du vắng lặng hai bên...”. Trước đó chắc là một ngôi chùa làng nghèo, đã đổ nát, và hẳn cũng chưa có tháp nhọn như ngọn bút viết lên trời xanh để được gọi là Bút Tháp. Viết điều gì vậy? Đâu phải kinh Phật. Viết nỗi đau của con người.


2. Thế kỷ 17 là một thế kỷ loạn ly và đầy mâu thuẫn. Loạn nhà Mạc, chiến tranh Nam Bắc triều vừa chấm dứt thì lại bắt đầu cuộc nội chiến lớn nhất lịch sử, Trịnh Nguyễn phân tranh. Anh Thượng có lần nói, như một nhà xã hội học uyên thâm và trầm tư: Phong kiến mãi đánh nhau, mặc kệ làng xã tự trị. Cho nên đây cũng là thời kỳ làng xã hưng thịnh, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Và nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật dân gian, lên tới đỉnh cao, như thường vẫn vậy, không phải trong những buổi thái bình và ổn định của xã hội, mà trong thời loạn.


Khủng hoảng xã hội đổ bóng xuống những số phận cá nhân, tập trung vào tầng lớp cao nhất, tầng lớp thống trị. Chính ở đấy diễn ra những bi kịch thống thiết và cũng nhầy nhụa nhất. Chúa Trịnh khuynh loát, vua Lê chỉ còn cái bóng mờ. Trịnh Tùng bắt vua Lê Kính Tông phải thắt cổ tự tử, đưa Lê Thần Tông lên ngôi, ép Thần Tông lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc là vợ góa đã có bốn con của Lê Trụ vừa mắc tội phải chết chém.


Sử chép: “Triều thần can gián, vua nói: “Trót rồi phải lấy”. Từ đó trời mưa dầm không ngớt...”. Người viết bia Ninh Phúc Thiền tự thật thâm thúy, văn bia ghi: “Vượt sông dài nối với những áng mây trôi Yên Tử...”. Cứ như muốn hỏi: lịch sử là một vòng luẩn quẩn không bao giờ dứt chăng? Sao mà ở đây lại giống chuyện Trần Thủ Độ với Trần Thái Tông, Trần Liễu... đầu nhà Trần đến thế, tưởng chép lại nguyên si!... Và lạ thế, cả hai lần dấu vết của bi kịch lại đều rõ nhất, đậm nhất ở các chùa. Trong ý tưởng xây dựng, trong kiến trúc, và đọng sâu nhất trong các tượng.


Bút Tháp là nơi có nhiều tượng vào hàng đẹp nhất trong thế giới tượng cổ Việt Nam: hệ thống tượng Phật phong phú, nổi tiếng nhất là tượng Phật nghìn mắt nghìn tay cực kỳ điêu luyện; hệ thống tranh khắc đá mà anh Thượng đã rất tinh tế bảo là vừa đa dạng vừa nhất quán theo thủ pháp nghệ thuật đảo chiều: “Nét chạm bề ngoài thì thô vụng nhưng kỹ xảo hết sức khéo léo tinh vi, tạo hình tượng thì ngẫu nhiên, tự do nhưng hết sức chắt lọc và khái quát, nhiều khối lớn có vẻ sơ sài nhưng đường nét rất vi tế, đục khắc trên đá mà cho cảm giác thoải mái như bậc cao sĩ múa bút thảo thư...”.


Song sinh động và độc đáo nhất ở đây là loạt tượng chân dung, không chỉ chạm khắc một đôi khuôn mặt, mà trưng ra đấy, trường trải với thời gian, diện mạo cả một triều đình, tầng lớp đứng đầu một xã hội đổ nát, một nhân quần đang cố vùng vẫy tìm đường thoát khỏi những đau khổ cùng cực của kiếp nhân sinh, tất cả đều cố giấu sau vẻ an tịnh của lớp áo khoác Phật giáo, mà rồi có giấu được đâu. Tượng chân dung ở Bút Tháp đông đúc khác thường, rộn rịp, chen chúc ở gian tiền đường. Chính giữa là Lê Thần Tông, vây quanh là các bà hoàng phi và công chúa của ông.








Phan Cẩm Thượng (ngồi) trong chùa Bút Tháp


3. Chủ trương xây Bút Tháp chính là bà Ngọc Trúc. Nay bà cũng đang ngồi đó, tại gian tiền đường, bên cạnh vua, đứng hàng đầu trong số tượng các bà phi. Đối với người đàn bà này, người nghệ sĩ vô danh thế kỷ thứ 17 không còn phải quá giữ gìn khắt khe như đối với vua. Nét khắc đã hằn sâu số phận và tính cách cá nhân. Phan Cẩm Thượng nhận xét: “Khuôn mặt cương nghị, ẩn nhẫn, đôi mắt mở to biểu hiện con người từng trải và đau khổ”.


Có đêm, rất khuya, anh Thượng rủ tôi đến ngồi ở tiền đường, trước cái quần thể tượng kỳ lạ ấy, gồm vua cùng bao nhiêu bà cung phi và công chúa của ông, ở trung tâm là một người đàn ông và một người đàn bà thống khổ. Chúng tôi ngồi đó không còn biết là bao lâu nữa, ánh sáng chập chờn của tiền điện và không khí huyền ảo chùa khuya khiến cả không gian lẫn thời gian đều lãng đãng hư thực.


Đây là chùa hay là cõi nào, là đạo hay là đời, là chốn siêu thoát thanh tịnh hay là cõi trần thế xáo động? Sao lại đem bày nơi cửa Phật này lắm nỗi dục vọng và tuyệt vọng của con người đến vậy? Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt mở to tưởng như đã an tịnh mà kỳ thực còn kinh ngạc của người đàn bà đã sống và đau khổ bốn trăm năm trước. Anh Thượng gọi đấy là một đôi mắt “ẩn nhẫn”.


Ban ngày, khi tấp nập khách thập phương đến viếng, hương khói mịt mù, trông bà hoàng xưa như đã siêu thoát thành một vị phật bà yên tịnh, đã trả lời xong mọi câu hỏi khắc nghiệt éo le của cuộc đời; nhưng giữa đêm khuya, càng khuya và càng nhìn kỹ mới thấy đôi mắt ấy như mỗi lúc càng mở ra to hơn, ngơ ngác, sững sờ, tưởng chừng vẫn còn nguyên đó, đông cứng suốt bốn trăm năm, nỗi sững sờ của người phụ nữ vừa khóc chồng mới chết thảm khốc đã liền phải cưới lấy một ông vua bù nhìn mà mình không hề yêu. Và tôi bỗng có cảm giác bắt đầu lờ mờ hiểu ra được đôi chút điều đã khiến anh bạn họa sĩ của tôi tìm đến định cư nơi này.


Vậy đó, nghệ thuật là cuộc lần tìm theo dấu vết con đường giải thoát con người xưa nay vốn mãi trằn trọc đi tìm, nghệ thuật cũng chính là bản thân cuộc tìm kiếm nhọc nhằn và bất tận ấy. Bốn thế kỷ trước, người đàn bà đau khổ tận cùng nay vẫn ngồi kia từng đến đây trên con đường tìm kiếm thống thiết mà vô vọng của mình. Bà đã chủ động dựng nên nơi này, còn chủ động hơn cả Thần Tông chồng bà, như một lối mở đường giải thoát cho cả hai. Năm 1633, có thiền sư Chiết Tuyết từ Trung Hoa vào Đàng Trong rồi ra Thăng Long, lập chùa Phật Tích bên kia sông Đuống. Bà Ngọc Trúc lập tức đến nghe kinh, rồi xin cho trùng tu Bút Tháp để tính chuyện chính thức xuất gia.


Mất mười năm Bút Tháp mới hoàn thành, Chiết Tuyết từ Phật Tích chuyển sang trụ trì Bút Tháp. Bà Ngọc Trúc liền dẫn các con gái và một loạt hoàng thân quốc thích về hẳn Bút Tháp qui y. Anh Thượng bảo chính bà Ngọc Trúc là người đã cùng Chiết Tuyết phác họa và quyết định phương án kiến trúc Bút Tháp.








Trăng hạ huyền - khắc gỗ Phan Cẩm Thượng


4. Tôi có một chị bạn là họa sĩ, đã bỏ suốt mười năm đi khắp các đình chùa, lục khắp các bảo tàng và kho lưu trữ, chỉ để làm mỗi một việc: đo đạc các kích thước của những công trình ấy, lần ra tỉ lệ giữa chúng, để cuối cùng khám phá ra được cái hằng số kiến trúc đặc trưng.


Có được cái ấy, chị bảo, thì vẽ bất cứ cái gì, bằng cách nào cũng lập tức ra dân tộc, ra Việt Nam ngay, không lẫn vào đâu được. Hồn dân tộc chứa trong cái hằng số ấy. Qua con đường thống khổ tận cùng và nỗi khát khao giải thoát cháy bỏng, bà Ngọc Trúc đã tìm ra được cái hằng số kiến trúc cho Bút Tháp, để lại cho hậu thế công trình tuyệt mỹ này.


Anh Thượng tìm về đây cũng chính là đi tìm cái hằng số đó. Anh giảng cho tôi: không gian Bút Tháp là một không gian dùng dằng hết sức đặc biệt, nửa đóng nửa mở, mở mà đóng, đóng mà mở, nửa kín nửa hở, kín mà hở, hở mà kín, nửa quyết nửa không, nửa bỏ nửa giữ, trong không gian dường có chứa cả thời gian, chùa nhìn từ bên ngoài thì nhỏ nhưng đi vào lại rộng, mở mãi không cùng, càng đi càng mở, đi hoài không hết, bất tận, tổng thể hoạch định chặt chẽ, chi tiết lại rất khác nhau và tự do... Nghệ thuật Bút Tháp chạy giữa hai bút pháp bác học và dân gian, giữa sự chán đời thất thế và khát vọng lưu luyến trần ai, giữa hiện thực và ảo tưởng, hiện sinh và hư vô...


Vậy đó, có một ngôi chùa như thế, bên bờ con sông Đuống nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc cội nguồn, rất đạo mà rất đời, yên tịnh mà xáo động, dân dã mà uyên thâm. Và có một người họa sĩ, một người nghệ sĩ đã và còn muốn để hết cả cuộc đời đến tìm ở đấy cái hằng số cho nghệ thuật của mình, mà cũng là cho cả cuộc đời mình, đối với anh không hề, không thể tách biệt.


NGUYÊN NGỌC

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009

Vụn vặt 04/11/2009

Sáng


Chở Bông đi học. Tới lớp, Bông bye bye và mi gió mẹ để mẹ đi làm. Có một anh học cùng lớp Bông ( cỡ hơn 3 tuổi ) cũng  hớn hở bye bye mẹ của Bông. Bông lập tức quay lại hất tay và bặm môi quắc mắt lên với anh ( ý là đây là mẹ của riêng em, anh không được bye bye mẹ em ), rồi gần như lập tức Bông lại quay sang mẹ tiếp tục công việc cười và bye bye mẹ. Hoạt cảnh ngắn ngủi: Cười và bye mẹ - bặm môi hăm dọa anh Chít - rồi lại cười và bye mẹ, chỉ diễn ra cỡ 10 giây, khuôn mặt Bông liên tục biến đổi rất ngộ nghĩnh làm mẹ phì cười. Khởi đầu một buổi sáng vui

.


Đến công ty. Cánh cửa mở ra thế giới của mình ( Internet ) bị khóa từ hôm qua. Hóa ra nó ( internet ) cũng chẳng ghê gớm như mình nghĩ ( mình sẽ chán như con gián nếu không được lướt web ). Một cánh cửa khác mở ra khi cánh cửa kia đóng lại, mình có thời gian đắm chìm vào thế giới kiến trúc của Suối Nguồn ( 1200 trang ) mà mình mới giải quyết được hơn 200 trang rồi bỏ đấy.


Chiều


Từ giờ đến cuối năm SG sẽ bị ảnh hưởng kinh khủng bởi những đợt triều cường mà mình cũng dính vì con đường đi làm của mình cặp theo bờ kênh Tẻ. Mình tự an ủi, trong khi nhiều xe đang bị chết máy phải dẫn bộ trong biển nước thế kia , em LEAD đen của mình vẫn ung dung rẽ sóng tiến lên, rồi có triều cường mình mới nghe Bông bi bô: "mẹ ơi, nước kìa, ghê chưa!!!". Nước sông ( thực tế là nước cống, nước thải ) bắn hết lên chân và quần cũng có hôi hám, nhớp nháp nhưng về nhà đã có bình nóng lạnh và sữa tắm giải quyết hết. Thế nên triều cường cũng chẳng có gì kinh khủng. Ngay ngã 3 lối rẽ vào chung cư nhà mình hôm nay như một hồ nước lấp lánh ánh đèn đường trông còn khác lạ và lung linh nữa ấy chứ

.


Tối


Cả nhà lại ăn ngoài vì cho Thỏ đi khám xong thì trời đã nhá nhem, nghĩ đến về nhà mới lụi cụi nấu nấu, rửa rửa chồng đã chán nên chồng đòi ăn ngoài. Hôm nay ăn mì Vịt Tiềm. Ở quán ăn có 2 chị em bán vé số, chị chừng 7 tuổi và thằng em 4 tuổi đen nhẻm và còi dí dị ( phong cách bán vé số rất chuyên nghiệp

 ). Có một bác trung niên ( chưa tới 50 ) vẫy bé chị ra và hỏi han vài câu rồi bác gọi cho 2 đứa 2 tô mì và 2 ly trà đá. Bác không cho tiền và cũng không mua vé số. Có lẽ do đọc nhiều phóng sự có những đường dây chuyên chăn dắt trẻ em ăn xin và bán vé số nên bác cho chúng nó ăn cho chắc cú
. Hai đứa trẻ háo hức chờ đợi tô mì như chờ được ăn tiệc và chúng còn rù rì bình luận về cái món chúng sắp được ăn, còn Thỏ thì uể oải nhai trệu trạo. Khi mì được bưng ra bé chị chia thêm cho thằng em thịt vịt của phần mình
. Bác trung niên ngồi ngắm nhìn chúng ăn, khi chúng gần ăn xong bác mới về. Hai đứa lập tức buông đũa vòng tay chào ân nhân. Mặt mũi 2 đứa đều đậm nét phong trần vì phải ra đời sớm nhưng ở một chừng mực nào đó chúng vẫn giữ được sự lễ độ cần có của một đứa trẻ.